Tổng sản lượng công nghiệp hoá chất Việt Nam hàng năm chiếm khoảng 10-11% tổng giá trị GDP ngành công nghiệp. Lực lượng lao động chiếm gần 10% và có năng suất lao động cao 1,36 lần năng suất lao động trung bình của toàn ngành công nghiệp do có mức độ tự động hoá khá cao.
Cuộc đại cách mạng công nghiệp 4.0 đã mở ra nhiều cơ hội mới cho ngành công nghiệp hóa chất chuyển mình, tăng cao năng suất, chất lượng khi ứng dụng khoa học, công nghệ mới, thúc đẩy tăng trưởng xanh, bền vững.
Tình hình sản xuất và áp dụng công nghiệp 4.0 của ngành hóa chất
Sau khi các dự án đang triển khai hoàn thành và hoạt động ổn định, giá trị tổng sản lượng ngành công nghiệp hóa chất chiếm tỷ trọng từ 13-14% toàn ngành công nghiệp.
Tính đến năm 2020, toàn ngành công nghiệp hóa chất có khoảng 1.818 doanh nghiệp sản xuất phân bổ trên 6 vùng trong cả nước. Trong đó có 894 doanh nghiệp sản xuất phân bón (chiếm 49%), 106 doanh nghiệp sản xuất hóa chất bảo vệ thực vật (chiếm 6%), 14 doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hóa dầu (chiếm 1%), 68 doanh nghiệp sản xuất hóa chất cơ bản (chiếm khoảng 4%)… Hiện có khoảng 2,7 triệu lao động trong đó có 725.000 lao động trực tiếp tham gia sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất.
Một tín hiệu đáng mừng được ghi nhận là những năm gần đây, ngành hóa chất có sự tham gia đầu tư của nhiều thành phần kinh tế, nhiều dự án quy mô lớn. Điều đó cho thấy nhu cầu của thị trường và chính sách hấp dẫn của Nhà nước đối với phát triển công nghiệp và công nghiệp hoá chất.
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, yêu cầu tất yếu đặt ra đối với ngành hóa chất trong thời gian tới là phải đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ, khuyến khích nghiên cứu khoa học, công nghệ trong ngành hóa chất, tập trung vào việc sử dụng các sản phẩm phụ, chất thải hiện có của ngành làm nguyên liệu cho quá trình sản xuất các sản phẩm khác.
Với Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, Tập đoàn xác định quan điểm về công tác khoa học và công nghệ trong giai đoạn 2021-2025 là: Tập trung đầu tư chiều sâu, nâng cao năng lực sản xuất đồng thời từng bước đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị bằng cách tăng cường ứng dụng công nghệ, thiết bị nhập khẩu tiên tiến, hiện đại, kết hợp chặt chẽ với việc đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ để làm chủ công nghệ, phát triển tiềm năng khoa học và công nghệ.
Qua đó, từng bước tạo ra công nghệ của mình trên cơ sở bám sát các vấn đề/yêu cầu cấp thiết của thực tiễn sản xuất tại các doanh nghiệp/đơn vị của Tập đoàn, đồng thời quan tâm nghiên cứu phát triển những định hướng sản xuất mới nhằm giúp khẳng định, giữ vững và nâng cao vị thế doanh nghiệp hàng đầu của ngành công nghiệp hóa chất, tương xứng với vai trò của một tập đoàn kinh tế của đất nước.
Xuất khẩu đạt kết quả khả quan
Về xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu hóa chất của Việt Nam sau khi sụt giảm trong năm 2019 và năm 2020 đã tăng mạnh trở lại từ trong năm 2021.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu hóa chất của nước ta trong 8 tháng đầu năm 2021 đạt 1,45 tỷ USD, tăng 29,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong giai đoạn từ năm 2016 đến 8 tháng đầu năm 2021, cơ cấu thị trường xuất khẩu hóa chất của Việt Nam đã có sự chuyển dịch khi thị phần xuất khẩu sang Trung Quốc tăng lên và thị của Ấn Độ và Nhật Bản giảm.
Trong 8 tháng đầu năm 2021, Trung Quốc chiếm 26% tổng kim ngạch xuất khẩu hóa chất của Việt Nam với kim ngạch đạt 377,9 triệu USD, giảm 2,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hóa chất sang hầu hết thị trường khác đều tăng mạnh trong 8 tháng đầu năm 2021 như: Nhật Bản tăng 21,4%, Ấn Độ tăng 126,5%, Hàn Quốc giảm 67,6%…
Đối với Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), lĩnh vực hóa chất được đánh giá sẽ có cơ hội cải thiện kim ngạch xuất khẩu vào EU nhờ tác động từ thuế suất giảm dần về 0%.
Những mặt hàng hóa chất mà doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng tốt cơ hội nhờ EVFTA gồm Hóa chất cơ bản và chất giặt rửa. Cụ thể, đối với các mặt hàng chất giặt rửa (HS 3402), thuế suất được điều chỉnh từ 4% về 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực, trong khi đó với mặt hàng phốt pho (HS 2804 7000), thuế suất được điều chỉnh giảm từ 5,5% về 0% ngay khi EVFTA có hiệu lực,…
Theo Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC), trong giai đoạn năm 2016-2020, một số mặt hàng hóa chất xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu của thế giới trong cùng giai đoạn.
Trong đó, Corundum nhân tạo, đã hoặc chưa xác định về mặt hóa học; nhôm ôxit; nhôm hydroxit đạt mưctăng trưởng xuất khẩu bình quân 23% trong giai đoạn 2016-2020, trong khi nhập khẩu của thế giới trong giai đoạn này tăng khoảng 8%.
Hydro, khí hiếm và các phi kim loại khác xuất khẩu của Việt Nam cũng tăng 5% trong giai đoạn kể trên trong khi thế giới giảm 6%.
Kẽm oxit; kẽm peroxide, Oxit titan, Clorua, oxit clorua và hiđroxit clorua; bromua và oxit bromua; iotua và… cũng đạt tốc độ tăng trưởng cao trong giai đoạn 2016-2020.